中文Tiếng ViệtEnglish

LỊCH SỬ HỘI DÒNG Institute history


SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HỘI DÒNG



1.Thời kì đầu
      Năm 1926 Đức Thánh Cha Pio XI đặt Đấng sáng lập Hội Dòng, Đức Tổng Giám Mục Teodoro Labrado Fraile O.P làm đại diện tòa thánh nhiệm kì thứ nhất tại Phúc Ninh Trung Quốc. Phúc Ninh nằm ở phía đông của tỉnh Phúc Kiến, giáo dân chiếm 70% của giáo phận Phúc Kiến. Vào những năm cuối đời Minh, sáu vị chân phước tử đạo dòng Đa Minh tử đạo tại đây, nên giáo phận Phúc Kiến có được sự phát triển ổn định và đời sống đạo rất sống động . Giáo dân ở đây rất sốt sắng nên, số người đi tu tại gia cũng rất nhiều. Ngoài ra hai vị thánh tử đạo dòng Đa Minh là thánh Phanxico và thánh Capella khi các Ngài truyền giáo ở đây đã hướng dẫn cho một thiếu nữ tên Trần Tử Đông, giúp cô sống đời khiết tịnh phục vụ Giáo Hội. Đời sống tốt lành và thánh thiện của cô đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến những thiếu nữ khác khiến rất nhiều người quyết tâm tu tại gia phục vụ cho công việc truyền giáo.
       Đức tổng giám mục nhìn thấy rất nhiều người có khát vọng sống cho Chúa và phục vụ Giáo Hội, nên đã quyết tâm thành lập dòng địa phương. Năm 1932 Ngài thành lập Hội Dòng Đa Minh Phúc Ninh, thuộc tỉnh Phúc Kiến . Ngài mời các nữ tu Dòng truyền giáo Đa Minh Mân Côi từ Tây Ban Nha đến Trung Quốc làm công tác truyền giáo và mục vụ đồng thời giúp đỡ đào luyện các chị em dòng Đa Minh Phúc Ninh mới được thành lập. Năm 1932 Sr. Ascension Nicol Goni và Sr. Teresa Lazaro cùng với 9 nữ tu trẻ , trải qua hai tháng hành trình vất vả từ Tây Ban Nha đến Hongkong sau đó đến Sanduoao ( một hải cảng của tỉnh Phúc Kiến) , nhà mẹ của hội dòng đặt trụ sở tại đây. Nhà mẹ được khánh thành vào ngày 4 tháng 8 năm 1939 với tên gọi “Cộng đoàn nhân ái” nhận Thánh Tâm Chúa Giêsu làm bổn mạng.


2.Đến Đài Loan
     Năm 1949 chiến tranh Trung Cộng đã lan đến niềm nam Trung Quốc, hội dòng phái 13 chị em trẻ trong đó có 6 sơ khấn trọn, 5 tập sinh, 2 tiền tập với lý do đi du học để rời khỏi Trung Quốc. Tình hình lúc đó rất cấp bách, các chị em không thể chào biệt gia đình, vội vã lên đường dưới sự dẫn dắt của cha phụ tá Lâm .Ngoài ra cùng đi với họ còn có sáu nữ tu Dòng truyền giáo Đa Minh Mân Côi người Tây Ban Nha. Trước lúc lên đường sơ Miao và sơ Lai đã chuẩn bị hai chiếc rương mang theo những tài liệu quan trọng của hội dòng, cùng các chị em bắt đầu bước vào một cuộc hành trình đầy gian khó. Ngày 18 tháng 5 các chị em đến Hongkong nhận sự tiếp đón của nữ tu Long Dezhen Dòng Bửu Huyết. Các chị em vào ở trong trường học, vì ban ngày có học sinh nên các chị em buổi tối sau khi ngủ xong phải cuộn chiếu lại, xếp vào nhà kho đợi đêm đến thì lại trải ra ngủ. Trong suốt thời gian này các chị em phải sống dựa vào sự  giúp đỡ của các sơ Dòng Bửu Huyết và sự quyên góp của các linh mục cũng như giáo dân bản xứ. Cuộc sống của các chị em vô cùng thiếu thốn và khó khăn ngay cả giấy vệ sinh cũng không có để dùng. Ba tháng sau nhờ vào sự giúp đỡ của sơ hiệu trưởng trường Qingxiu ( một trường tại Đài Loan của dòng truyền giáo Đa Minh) sơ Hong Qizhen , giúp làm thủ tục đến Đài Loan.
Các chị em ngồi tầu đến Đài Loan, ba ngày sống trên tàu chỉ dựa vào thùng bánh quy mà các sơ Dòng Bửu Huyết tặng cho để ăn đỡ đói, vừa đói vừa say sóng nhưng các chị vẫn động viên nhau. Ngày 15 tháng 8 tàu nhắm hướng Keelung ( một hải cảng phía bắc của Đài Loan) ra khơi, nhưng vì có bão nên tàu tạm thời dừng tại Cao Hùng ( một thành phố phía nam Đài Loan). Linh Mục Wu đưa các chị em đến bệnh viện Lạc Nhân của dòng Các nữ tu thừa sai Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội tham dự thánh lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời và thưởng thức bữa cơm ngon lành mà các sơ tiếp đãi,  các chị em rất vui vì được các sơ tặng thêm bánh mì, sau đó các chị em trở về tàu nghỉ ngơi và ngày hôm sau lên đường đến cảng Keelung, bắt đầu cuộc sống mới ở Đài Loan. Khi các chị em đến Keelung sơ Hong Qizhen hiệu trưởng trường Qingxiu tiếp đón các chị em và sắp xếp cho các chị em nghỉ ngơi tại nhà nội trú của trường học ba tháng.
      Tháng sáu năm 1951 Đấng sáng lập dòng bị bắt ở Trung Quốc với lý do là cổ động cho hội binh Đức Mẹ, vào ngày 1 tháng 11 cùng năm Đấng sáng lập và hai linh mục cùng dòng là linh mục Hu Liangming , linh mục Xue Renkan bị buộc rời khỏi Trung Quốc , các ngài đã đi bộ năm ngày trời mới đến Quảng Châu, từ đó ngồi tàu lửa đi Hongkong. Khi đến Hongkong vì sức khỏe suy yếu Ngài đã phải nhập viện chữa trị .
     Năm 1952 Ngài đến Phillipin , sau đó đến Đài Loan thăm các sơ ,vì nhiều lý do Ngài không thể ở lại Đài Loan , hai tuần sau đành phải trở về Tây Ban Nha trong niềm tiếc nuối công cuộc truyền giáo còn dở dang.
Năm 1954 Đức Giám Mục Niu Huiqing , ngài vốn là cha tổng đại diện của Giáo Phận Phúc Ninh (Trung Quốc), nay Ngài cai quản giáo phận Chiayi (một giáo phận nằm ở phía trung nam của Đài Loan). Các chị em nhận được lời mời của Ngài và sự ủng hộ của các linh mục đến sống ở giáo phận Chiayi (Gia Nghĩa).
Năm 1955 qua bao nhiêu thăng trầm, số chị em còn lại là bảy người chuyển đến định cư ở giáo phận Chiayi (Gia Nghĩa), tham gia vào công việc phục vụ tại bệnh viện thánh Giuse và trường mẫu giáo Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Năm 1957 nhà tổng và nhà tập được tái xây dựng tại thị trấn Dounan tỉnh Yunlin , thuộc giáo phận Chiayi (Gia Nghĩa). Ngày 28 tháng 11 cùng năm Đức Giám Mục Niu Huiqing cho phép sơ Lai làm sơ bề trên tổng quyền tạm thời. Sơ Miao làm giáo tập.
      Năm 1960 hội thánh chính thức chấp nhận cho hội dòng tái lập nhà tổng và nhà tập tại Đài Loan, đổi tên thành Dòng Đa Minh Trung Hoa, trực thuộc Giáo phận Chiayi (Gia Nghĩa). Cũng trong năm này bắt đầu thâu nhận các ơn gọi Đài Loan. Ước mơ thành lập dòng bản xứ và nhiệt tâm truyền giáo của Đấng sáng lập tiếp tục có người tiếp nối.
      Các chị em thời đầu mới đến Đài Loan cuộc sống vô cùng vất vả và thiếu thốn. Nhưng với lòng tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, các sơ sống cần kiệm, nuôi heo nuôi gà, trồng rau, góp nhặt được một chút tiền, cùng với sự giúp đỡ mời gọi quyên góp của các linh mục trong giáo phận và nhất là sự giúp đỡ hết lòng của Đấng sáng lập, Ngài ở nước ngoài nỗ lực hết sức để quyên góp tiền cho các chị em. Cuối cùng có thể xây dựng được nhà tổng và trường mẫu giáo Dounan, bệnh viện Phúc An. Sau đó xây dựng trường mẫu giáo Xiguang viện dưỡng lão Phúc an và trạm y tế thứ nhất, bắt đầu công cuộc phục vụ , giáo dục và công tác xã hội tại Đài Loan.
       Hội dòng ngoài việc xây dựng trường học, bệnh viện , các chị em càng coi trọng công việc rao giảng Lời Chúa và giáo dục giới trẻ. Các chị em tham gia phục vụ tại trường trung học, tại các giáo xứ của Giáo phận dạy giáo lý, phục vụ dân tộc thiểu số.
       Các linh mục dòng Đa Minh thuộc tỉnh dòng Đức rất nhiều lần giúp các chị em tìm những học bổng để các chị có cơ hội được học tập nâng cao. Năm 1973 các linh mục mời chị em đến phục vụ tại viện dưỡng lão Hiếu Ái (Siaoai) , ba năm sau các ngài rất rộng lượng trao lại cho các chị em quản lí. Sự tin tưởng và tấm lòng rộng lượng của các ngài luôn làm chị em cảm động và ghi khắc trong tim.
       Năm 1973 hội nghị truyền giáo của dòng Đa Minh được họp lần đầu tiên tại Tây Ban Nha, nhà dòng cử nữ tu Regina Huang tham gia hội nghị. Vì nơi họp gần với nơi ở của Đấng sáng lập nên sơ Huang có dịp đi thăm Đấng Sáng Lập. Sau hai mươi năm cách trở Đấng sáng lập được nhìn thấy người con của hội dòng do mình sáng lập thì không khỏi xúc động, niềm vui ngập tràn. Thời gian họp nửa tháng, sơ Huang có thời gian để kể cho Ngài nghe về tình hình của các chị em tại Đài Loan, sơ thay mặt các chị em biểu tả lòng biết ơn và nỗi khát vọng được mời Ngài đến Đài Loan. Đấng sáng lập cũng rất mong ước được gặp lại những người con yêu dấu của ngài và ước mong được trở lại sống với những con người mà ngài đã dành hơn cả nửa đời người cống hiến và phục vụ . Ngài đã xin với tòa thánh cho phép ngài được đến Đài Loan.
      Tháng 11 năm 1974 Ngài từ Tây Ban Nha bay sang Ý sau đó đến Hongkong và cuối cùng đáp cánh tại Đài Loan. Khi đến Đài Loan trong buổi họp báo ngài đã không ngừng biểu tả: “ Trung Quốc là đất nước thứ hai của tôi, tôi muốn được an nghỉ trên mảnh đất này”. Ngày 6 tháng 5 năm 1980 sau khi cùng những người con yêu dấu sinh sống sáu năm Ngài đã bình an trở về với Chúa, để lại cho những người con niềm nhớ nhung vô bờ.


3.Hiện tại và tương lai
        Dưới bàn tay dẫn dắt quan phòng của Thiên Chúa, sự giúp đỡ của các vị ân nhân hội dòng tiếp tục phát triển. Đến năm 2003 bắt đầu có những ơn gọi đến từ Việt Nam , Canada , cùng tham gia vào sứ mạng rao giảng Phúc Âm cứu các linh hồn của hội dòng. Hội dòng cũng dần phát triển ra nước ngoài. Tạ ơn Thiên Chúa đã luôn đồng hành và dẫn dắt hội dòng, khát mong mỗi người chị em luôn tràn đầy hăng say tiếp tục tinh thần truyền giáo của Đấng sáng lập để làm rạng danh nước Chúa và cứu các linh hồn.