TINH THẦN CỦA ĐẤNG SÁNG LẬP TRONG LÒNG CỦA CÁC CHỊ EM
-
Nhiệt tâm yêu mến Chúa Giêsu và Mẹ Maria
Tại cửa phòng của Ngài luôn dán ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu , mỗi lần đi ra đi vào Ngài đều hôn kính, mỗi ngày cả chục lần. Nếu đi ngang qua phòng của Ngài thường nghe thấy Ngài đọc lời nguyện tắt: “ Lạy Chúa Giêsu con tin tưởng Chúa, con cậy trông Chúa, con yêu mến Chúa”. Phần lớn thời gian trong ngày của Ngài đều là thinh lặng suy tưởng về Chúa, mỗi ngày ngoài giờ đọc kinh phục vụ và cử hành thánh lễ thì trên tay Ngài luôn là tràng chuỗi Mân Côi, nhất là hai năm cuối đời, Ngài không còn để ý đến thế sự, toàn tâm nghĩ đến nước trời. Mỗi dịp các sơ đi thăm Ngài đều thấy Ngài đang đọc kinh Mân Côi, cả con người của Ngài như chìm đắm trong Thiên Chúa, nhìn cách thức Ngài cầu nguyện làm cho những người bên cạnh có cảm giác “Chúa thực sự hiện diện nơi đây, gần bên tôi”, rất bình an, rất thánh thiện , cảm giác như ở trên thiên đàng. Thái độ sốt sắng của Ngài khi tham dự thánh lễ càng khiến cho người khác cảm phục, mỗi khi có lễ lớn mặc dù tuổi tác đã cao nhưng Ngài luôn đến nhà thờ xứ tham dự cùng với các giáo dân. Thánh lễ hơn một tiếng đồng hồ nhưng một người hơn 90 tuổi như Ngài không hề thay đổi tư thế hay ngọ ngoạy tay chân, luôn nghiêm trang, lễ xong cũng không kêu mệt. Nơi Ngài đã thể hiện rõ tinh thần sốt sắng tham dự thánh lễ của Thánh Đa Minh.
-
Khiêm tốn
Khiêm tốn là tinh thần mà Ngài đã nhắc nhở các con cái trong di chúc của mình: “Cha khuyên các con hãy có một nhân đức quan trọng nhất đó là đức khiêm tốn”. Cuộc sống của Ngài chính là một tâm gương soi chiếu đức khiêm tốn. Mặc dù thân phận của Ngài là Đức Tổng Giám Mục và Đấng Sáng Lập Dòng, nhưng bất cứ việc lớn nhò Ngài luôn hỏi xin phép tổng quyền, nếu tổng quyền đồng ý Ngài rất vui mỉm cười, nếu tổng quyền cho rằng việc này không cần thiết Ngài liền nghe theo, những điều này xuất phát từ tinh thần khiêm tốn vâng phục, khiến các sơ rất cảm phục. Đôi khi các sơ vì bận rộn quên chăm sóc Ngài cẩn thận, Ngài không bao giờ oán trách, luôn nghĩ cho người khác, không làm cho người khác cảm thấy Ngài là gánh nặng. Khi các sơ đưa thức ăn cho Ngài, dù thích hay không thích Ngài đều vui vẻ ăn làm cho các sơ chăm sóc Ngài cảm thấy rất vui. Ngài không chỉ đối với bề trên khiêm tốn mà ngay cả đối với các sơ nhỏ Ngài cũng luôn vâng lời. Có những lúc đã ăn bữa nhẹ vào buổi chiều nên đến giờ ăn bữa tối Ngài vẫn chưa đói, nhưng nếu sơ nhỏ nói phải ăn nhiều mới có sức khỏe, Ngài luôn nhìn sơ và rồi để sơ dìu đến nhà cơm, dùng bữa như thường. “ Luôn nghĩ tốt cho người khác và khiêm tốn hạ mình” đó là đức tính đáng để mọi người ca ngợi của Đấng sáng lập. Trong đời sống thiêng liêng , Ngài thường dùng bí tích hòa giải như phương thế để đến gần Thiên Chúa, Ngài thường đợi các cha làm lễ xong thì xin xưng tội. Có một lần vì Ngài đã lớn tuổi, thân xác yếu mệt, đi đứng không thuận lợi, hy vọng Thiên Chúa sớm gọi Ngài về trời, linh mục đã nói với Ngài : “Thánh ý của Chúa là Ngài còn phải sống thêm vài năm”. Ngài vừa nghe thấy thế liền biểu tả thái độ vâng phục nói với linh mục : “Dù sống hay chết tất cả đều là vì Chúa”. Ngài rất thích làm lễ và trao ban Thánh Thể cho các sơ, tất cả những điều này đều xuất phát từ lòng khiêm tốn của Ngài.
-
Khó nghèo, tận tâm
Hành lý của Ngài khi đến Đài Loan chủ yếu là quần áo đã mặc khi còn ở Trung Quốc. Nếu đồ đạc có thể chia ra dùng hai lần Ngài không bao giờ dùng một lần rồi vứt. Để tiện lợi cho Ngài , các sơ thường bật sáng điện trong phòng của Ngài cả ngày, mỗi khi Ngài ra khỏi phòng đều nhắc nhớ các sơ tắt điện. Cho bản thân Ngài rất tiết kiệm nhưng với người khác thì rất rộng rãi, có cái gì tốt đều cho các sơ , nhìn thấy các sơ vui Ngài cũng rất vui. Khi ở Trung Quốc Ngài đã bán đồ dùng cá nhân, tự mình cày cuốc để nuôi sống bản thân và các dự tu, tất cả đều xuất phát từ tinh thần khó nghèo. Ngoài đời sống khó nghèo Ngài còn là một con người rất tận tâm, người khác quên đóng cửa, Ngài liền đóng giúp. Khi còn ở trung Quốc, một lần nhìn thấy áo của các sơ bụi bẩn, Ngài liền lấy bàn chải giúp sơ chải sạch sẽ. Ngài thường để tâm đến nhu cầu của người khác và quan tâm đến từng vị nữ tu.
-
Gần gũi và hài hước
Ngài chưa bao giờ tỏ thái độ mình là bậc cao quý, mỗi khi có người chào hỏi Ngài , Ngài luôn rất thân mật chào lại. Ngày đầu tiên Ngài trở về nhà dòng chính Dounan, mặc dù rất mệt mỏi vì đường xa nhưng Ngài không ngừng ôm hôn chào hỏi mọi người, thái độ quan tâm, ánh mắt nhân từ làm cho mọi gười cảm thấy rất ấm áp. Ngài rất yên thương trẻ nhỏ, trong túi lúc nào cũng chuẩn bị sẵn kẹo ngọt. Khi Ngài vẫn còn đi lại được mỗi ngày Ngài đi xuống lầu một chơi với các em nhỏ của trường mẫu giáo. Các trẻ nhỏ vây quanh Ngài gọi: “Ông ơi, ông ơi” và rồi kẹo trong túi Ngài cứ thếvơi dần đi, khi đã phát hết kẹo mới ngồi xuống ghế nghỉ ngơi, các em nhỏ thích quấn quýt bên Ngài, Ngài không cảm thấy khó chịu nhưng rất vui, đôi khi Ngài vỗ nhẹ má các em, các em chạy nhảy bên cạnh Ngài, mọi người nhìn thấy đều mỉm cười vui sướng. Ngài rất thích nghe người khác hát, nhất là những bài hát nhẹ nhàng vui tươi, mỗi khi nghe xong Ngài thường vỗ nhẹ hai ngón tay biểu tả Ngài rất vui. Ngài cũng có tính hài hước của Thánh Đa Minh, thường nói đùa với các sơ, nhìn thấy các sơ cầm tấm vải đỏ làm người đấu bò , Ngài liền giơ hai ngón tay trên đầu làm bò, làm mọi người đều cười hết ga. Các sơ thích nhìn thấy Ngài cười nên thường bày trò chọc Ngài. Ngài rất hợp tác với trò chơi của các sơ làm cho mọi người đều vui. Ngài rất thích sự gọn gàng sạch sẽ luôn cắt tóc tai gọn gàng. Các sơ trẻ rất thích nghịch bộ râu dài trắng xóa của Ngài, có lúc vô tình giựt râu làm Ngài bị đau ,Ngài cũng không tức giận mà chỉ mỉm cười.
Đời sống nội tâm sâu sắc và tính cách vui tươi của người Tây Ban Nha là điều làm cho Ngài được mọi người yêu mến. Trước khi đến Đài Loan Ngài đã từng lo lắng không biết mọi người có tiếp nhận mình không? Thực ra sự lo lắng này là dư thừa . Trước khi Ngài đến Đài Loan mỗi dịp lễ bổn mạng hay sinh nhật cùa Ngài ,các chị em ở Đài Loan đều tổ chức mừng, hầu hết các sơ đều chưa được gặp mặt Ngài nhưng đã yêu kính Ngài, khát vọng được nhìn thấy Ngài. Lần đầu tiên gặp Ngài thì đã bị con người của Thiên Chúa này thu hút, cảm thấy Ngài rất gần gũi. Suốt thời gian Ngài ở Dounan các sơ đã nhìn thấy, đã học tập nhân đức của Ngài một cách sống động. Ngài giống như ánh sáng trong đêm tối không chói lọi nhưng âm thầm soi sáng, làm cho mọi người cảm thấy ấm áp, dễ chịu.
Ngày 6 tháng 5 năm 1980 Ngài yên bình đi vào giấc ngàn thu , phó thác linh hồn trong tay Chúa. Trước khi qua đời một tuần Ngài đã bị té gãy chân, cơn đau này đã cùng ngài đi chặng đường cuối cùng của đời người. Lý do cái chết của Ngài là : “ Viêm phổi dẫn đến khó thở”. Trước khi qua đời ba ngày trong bữa tối Ngài còn nói đùa với các sơ, khoảng chín giờ tối thì hít thở có vẻ khó khăn, sáng hôm sau lại trở lại với phong cách nghịch ngợm vui vẻ thường ngày , ánh mắt mở to nhìn khắp nơi, giống như không hiểu tại sao lại có nhiều các sơ ở bên cạnh mình như vậy. Khi Ngài biểu tả với các sơ Ngài muốn cắt sửa lại bộ râu thì mọi người trong lòng đã hiểu, Ngài đã chuẩn bị về trời. Các linh mục, tu sĩ, giáo dân đến thăm Ngài, Ngài đều nói : “ Cha đã nhìn thấy trên thiên đàng có rất nhiều người đang đợi cha”. Một con người thánh thiện lúc gần chết nhìn thấy các thánh đang chờ đợi thìkhông có gì là lạ. Môi miệng Ngài không ngừng kêu “ Giêsu Maria Giuse” và không ngừng làm dấu thánh giá, đã nhận bí tích sức dầu nhưng vì quên rồi nên lại xin cha xức dầu tiếp. Đến phút cuối cùng Ngài vẫn dùng tiếng Tây Ban Nha nói với linh mục : “ Cám ơn rất nhiều”.
Ngài bình an, qua đời không giằng xé, không đau khổ, như là đi vào giấc ngủ, từ sự bình an của Ngài có thể nhìn thấy niềm vui của sự phục sinh. Hai giờ chiều ngày 19 tháng 5 tại giáo xứ Dounan cử hành thánh lễ an táng. Đến tham dự ngoài hai Đức Giám Mục vìđau ốm hoặc đi nước ngoài không đến được, còn lại các Giám Mục khác của Đài Loan đều tham gia . Sau thánh lễ là nghi thức bái biệt và đưa Ngài về nơi an táng, đoàn người rước dài hơn một cây số, đi qua những con đường nhộn nhịp nhất của huyện Dounan khiến mọi người ngước nhìn. Đây là thành lễ an táng long trọng nhất tại giáo xứ Dounan. Khi con sống Ngài là một người khiêm tốn, khi chết đi được nhiều người biết đến. Đất thánh Dounan là nơi an nghỉ của Ngài , vị trícách nhà dòng không xa, các sơ bất kì lúc nào cũng có thể đến thăm Ngài. Cha Gao người học trò năm xưa của Ngài bên Trung Quốc mỗi năm đều đến thăm Ngài và cùng các sơ cầu nguyện cho Ngài. Ngài một đời đã sống tinh thần của Dòng Đa Minh: bảo vệ chân lý, tâm hồn nhân ái, nỗ lực không lười biếng sống vì Chúa 92 năm , tin tưởng rằng hôm nay đây trên thiên đàng Chúa nhất định sẽ thưởng công cho Ngài.
Khi còn sống Ngài luôn quan tâm đến dòng tu mà Ngài đã thành lập ở Trung Quốc, sau khi chết Ngài chắc chắn vẫn tiếp tục quan tâm. “ Cha thường xin với Thiên Chúa nhân lành chúc lành cho các con, để các con có thể trung thành phục vụ Thiên Chúa tại giáo hội Trung Quốc, mang lại hạnh phúc cho nhân dân.” Đây là lời mà Ngài đã nói khi ở Tây Ban Nha. Ngày nay ở trên trời, Ngài nhất định cũng mang lấy tâm tình này mà cầu nguyện cho chúng ta. Ngài là một nhà truyền giáo người nước ngoài đã dâng hiến cuộc đời mình cho giáo hội Trung Quốc, những người con của Ngài là những nữ tu Đa Minh Trung Hoa cũng cần nên giống Ngài dâng hiến cuộc đời với tinh thần giảng thuyết, nhân ái , giáo dục phục vụ giáo hội Trung Quốc
Hy vọng tinh thần và gương sáng của Đấng Sáng Lập , tiếp tục sống mãi trong cuộc sống của từng nữ tu Đa Minh Trung Hoa. Nguyện ước điều mà Ngài mong ước trong di chúc có một ngày được thực hiện : “Mong rằng những người mà đời này tôi gặp gỡ, có một ngày sẽ lại được gặp nhau trên thiên đàng”.
Ngày 4 tháng 3 năm 1995